Thực trạng tiêu chuẩn iso 14001 sau 10 năm áp dụng
Tiêu chuẩn ISO 14001 là bộ tiêu chuẩn do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) ban hành nhằm giúp các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và các quy định cũng như giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường. môi trường, các chính sách môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững cho thế giới. Nói cách khác, ISO 14001 là một khung tiêu chuẩn để các tổ chức, cơ quan và doanh nghiệp thể hiện cam kết của mình đối với các vấn đề môi trường như:
Giảm tác động xấu đến
môi trường;
Cung cấp bằng chứng về
cải tiến liên tục trong quản lý môi trường.
Chứng chỉ ISO 14001
là minh chứng cho sự nỗ lực của các doanh nghiệp và đây cũng là cam kết của các
tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong việc giảm thiểu chất thải và tái chế
nguyên liệu khi cần thiết. Các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp sẽ thấy được lợi
ích không chỉ ở việc tiết kiệm chi phí mà còn về các đợt đấu thầu mới.
Được Tổ chức Tiêu chuẩn
hóa Quốc tế (ISO) ban hành lần đầu tiên vào năm 1996, tiêu chuẩn ISO 14001 hiện
đã có mặt tại 138 quốc gia và vùng lãnh thổ và đã có hơn 140.000 doanh nghiệp /
tổ chức được chứng nhận. . Điều này chứng tỏ giá trị to lớn của ISO 14001 đối với
sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau 15 năm có mặt tại Việt Nam, các
doanh nghiệp vẫn chưa đánh giá đúng giá trị của nó.
Năm 1998, sau hai năm
được cấp, lần đầu tiên chứng chỉ ISO 14001: 1996 được cấp. Kể từ đó, số lượng
các tổ chức áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001 và được cấp chứng chỉ không ngừng tăng
lên. Lúc đầu, các công ty ở Việt Nam áp dụng ISO 14001 hầu hết là các công ty
nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài, đặc biệt là với Nhật Bản. Điều này
cũng dễ hiểu bởi Nhật Bản luôn là quốc gia đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường
và áp dụng hệ
thống ISO 14001: 2015. Mặt khác, Nhật Bản cũng là một trong những quốc
gia đầu tư vào Việt Nam từ rất sớm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư.
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản
đang kinh doanh tại Việt Nam, trong đó có một số tập đoàn lớn như Honda,
Toyota, Panasonic, Canon, Yamaha ... Hầu hết các công ty mẹ của các tổ chức này
đều đã áp dụng ISO 14001 và họ yêu cầu các công ty con ở tất cả các nước xây dựng
và áp dụng ISO 14001. Vì vậy, các doanh nghiệp này cũng đã góp phần rất lớn
trong việc xây dựng xu hướng áp dụng ISO 14001 tại Việt Nam. Nam giới.
Cùng với sự gia tăng
số lượng các tổ chức / doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài áp dụng ISO 14001, các
tổ chức trong nước cũng đã nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường
và họ cũng đã có những chiến lược bảo vệ môi trường. chiến lược áp dụng ISO
14001. Hầu hết các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty Xi măng như Xi măng
Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Hoàng Mai… cũng đã, đang và đang trong quá trình xây dựng
hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001. Mới đây, hàng loạt khách
sạn thành viên của Tập đoàn Du lịch Sài Gòn cũng đã được cấp chứng
nhận ISO 14001.
Tại Việt Nam hiện
nay, chứng chỉ ISO 14001 cũng đã được cấp cho nhiều tổ chức với nhiều loại hình
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, trong đó các ngành như Chế biến thực phẩm (mía
đường, thủy sản, rượu, nước giải khát ...), Điện tử, Hóa chất ( xăng dầu, sơn,
thuốc bảo vệ thực vật), Vật liệu xây dựng, Du lịch -Khách sạn đang chiếm tỷ trọng
lớn. Các doanh nghiệp nên tham gia các khóa
học iso 14001 để hiểu biết sâu hơn và áp dụng nhanh chóng hơn.
Tuy nhiên, so với số
lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp đã được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng
ISO 9001 thì số lượng doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn về quản lý môi trường vẫn
còn rất ít. Điều này cho thấy ở Việt Nam, các doanh nghiệp / tổ chức vẫn chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường.
Thuận lợi đầu tiên,
pháp luật về môi trường của nước ta ngày càng chặt chẽ hơn. Chúng ta đều biết rằng
tiêu chuẩn ISO 14001 không đưa ra các quy định hay tiêu chí cụ thể về môi trường
mà chỉ đưa ra các nguyên tắc trong quản lý, và một trong những nguyên tắc quan
trọng là doanh nghiệp / tổ chức. phải “phù hợp với các yêu cầu quy định của địa
phương”. Vì vậy, tính đầy đủ, dễ hiểu và tính khả thi của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về môi trường là điều cần thiết để nguyên tắc này được thực hiện.
Trong thời gian qua, mặc dù bảo vệ môi trường là một vấn đề mới nhưng các văn bản
liên quan đến bảo vệ môi trường cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường đã từng bước được
hoàn thiện và được khẳng định là một vấn đề nan giải. chủ đề quan trọng và ngày
càng được quan tâm, được thể chế hóa trong hầu hết các ngành nghề luật. Tuy còn
ở mức độ này hay mức độ khác nhưng các văn bản quy phạm pháp luật đó đã có tác
dụng to lớn trong công tác bảo vệ môi trường, góp phần không nhỏ trong việc cải
thiện môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. bảo vệ môi trường, trong
công tác quản lý nhà nước về môi trường.
Hệ thống pháp luật điều
chỉnh về bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993 đến nay đã phát triển cả về nội
dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu tố cấu thành môi trường.
Tỷ lệ thuận với tốc độ suy thoái môi trường, các văn bản quy phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường đã tăng lên nhanh chóng. Các văn bản quy phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường, quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi tổ chức, cá
nhân trong khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Một hệ thống môi trường.
Nhận xét
Đăng nhận xét